Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Phá thai

Phá thai là việc tách và lấy các thành phần của bào thai khỏi tử cung của người phụ nữ có thai nhờ tự nhiên, dùng thuốc hay can thiệp ngoại khoa.

Phá thai không an toàn là một thủ thuật đình chỉ thai nghén ngoài ý muốn được thực hiện hoặc bởi người không đủ kỹ năng cần thiết hoặc trong môi trường không đảm bảo tiêu chuẩn tối thiểu hoặc cả hai.

Ở các nước đang phát triển, nguy cơ tử vong do phá thai không an toàn cao gấp hàng trăm lần so với phá thai an toàn. Biến chứng lâu dài của phá thai không an toàn là vô sinh và chửa ngoài tử cung.

Vì không có biện pháp tránh thai nào đạt hiệu quả 100% nên việc có thai ngoài ý muốn là không tránh khỏi và người phụ nữ vẫn cần dịch vụ phá thai.

Hầu hết, các nước luật pháp cho phép phá thai để cứu tính mạng người phụ nữ và đa số các nước cho phép phá thai vì sức khoẻ thể chất và tâm thần của người phụ nữ.

Ở những nơi áp dụng rộng rãi và có hiệu quả các biện pháp tránh thai thì tỷ lệ phá thai giảm đáng kể nhưng không có nơi nào tỷ lệ phá thai bằng 0% vì một số lý do: Trước tiên là có hàng triệu cặp vợ chồng hoặc không tiếp cận với các biện pháp tránh thai có hiệu quả hoặc không có đầy đủ các thông tin để sử dụng chúng một cách hiệu quả; Thứ hai đó là không có biện pháp tránh thai nào đạt hiệu quả 100%; Thứ ba là tỷ lệ bạo hành đối với người phụ nữ trong gia đình và xã hội dẫn đến thai ngoài ý muốn ngày càng gia tăng; Thứ tư là do sự thay đổi hoàn cảnh sống như ly dị hoặc các cuộc khủng hoảng tinh thần làm cho việc có thai trở thành thai ngoài ý muốn.

Chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về giảm tỷ lệ phát triển dân số. Tuy nhiên, phá thai và những biến chứng gây nên là những vấn đề tồn tại lớn đối với phụ nữ Việt Nam. Mục tiêu chiến lược dân số năm 2010 không chỉ đơn thuần là vấn đề giảm sinh mà còn giảm tỷ lệ phá thai. Tỷ lệ phá thai còn cao, hàng năm, số người phá thai tăng theo sự phát triển dân số. Tình trạng phá thai ở phụ nữ chưa có con và chỉ có con gái vẫn còn nhiều.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hàng năm có 40 - 60 triệu phụ nữ phá thai. Tử vong do tai biến của phá thai khoảng 100.000 - 200.000 ca. Tỷ lệ phá thai ngày càng tăng, năm 1990 khoảng 25 triệu ca phá thai, đến năm 1995, số ca phá thai tăng lên 46 triệu, trong đó có 20 triệu ca là phá thai hợp pháp. Trung bình cứ 1.000 phụ nữ trong độ tuổi 15 - 49 có 35 người phá thai. Trong tổng số phụ nữ mang thai có 26% phụ nữ kết thúc thai nghén bằng phá thai.

Phá thai không an toàn sẽ gây những tai biến nguy hiểm.

Ở nước ta, phá thai được pháp luật cho phép từ năm 1945 và tuổi thai tối đa để phá thai là hết 22 tuần. Tỷ lệ phá thai năm 1994 là 2,5% giảm xuống còn 1,2% năm 2004. Tai biến do phá thai gồm: chảy máu, thủng tử cung, nhiễm khuẩn, uốn ván… Tuy các tai biến này có giảm nhưng vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong cho người phụ nữ. Cùng với phá thai thì tỷ lệ vô sinh trong độ tuổi sinh đẻ cũng tăng nhất là vô sinh thứ phát. Có nhiều yếu tố tác động đến phá thai: nhiều con, giãn khoảng cách sinh, lý do y tế, thất bại khi sử dụng biện pháp tránh thai, lý do kinh tế, việc làm, giới tính... Mỗi người phụ nữ đến phá thai tại cơ sở y tế đều có lý do riêng, mặc dù họ không muốn thế. Muốn khống chế, giảm tỷ lệ phá thai, ngoài các chính sách can thiệp giảm tỷ lệ phá thai, cần tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến hành vi phá thai của người phụ nữ. Biện pháp giảm tỷ lệ phá thai có hiệu quả là truyền thông tư vấn về việc áp dụng biện pháp tránh thai để mỗi gia đình chỉ có 1-2 con.

Một số khó khăn mà nhân viên y tế gặp phải trong khi cung cấp dịch vụ phá thai toàn diện: Thiếu nhân lực; Không đủ cơ sở vật chất theo chuẩn; Thiếu dụng cụ hoặc thuốc men; Chưa được tập huấn đầy đủ để đáp ứng một cách hữu hiệu nhu cầu phá thai của người phụ nữ; Vấn đề giao tiếp với khách hàng; Thái độ/lối suy nghĩ không tương đồng với người khác.

Các phương pháp phá thai quý I

- Hút chân không bằng tay hoặc bằng điện, áp dụng cho tuổi thai đến 12 tuần kể từ ngày đầu kỳ kinh cuối cùng.

- Phá thai nội khoa (phá thai bằng thuốc) kết hợp mifepristone sau đó dùng prostaglandin như misoprostol hoặc gemeprost áp dụng cho tuổi thai tới 9 tuần kể từ ngày đầu kỳ kinh cuối. Misoprostol là loại prostaglandin được sử dụng nhiều vì rẻ và không cần bảo quản lạnh.

- Nong và nạo chỉ nên áp dụng ở nơi mà hút thai chân không không có hoặc không có phá thai bằng thuốc.

Ước tính, mỗi năm trên thế giới có khoảng 210 triệu ca thai nghén và khoảng 46 triệu (22%) ca kết thúc bằng phá thai và tính bình quân trên toàn thế giới trong cuộc đời mỗi người phụ nữ đến tuổi 45 đã có ít nhất một lần phá thai. Gần 20 triệu ca trong số này là phá thai không an toàn.

Khoảng 13% tử vong liên quan đến thai nghén là do phá thai không an toàn và con số tử vong khoảng 67.000 ca mỗi năm.

Các phương pháp phá thai quý II

- Nong và gắp sử dụng kết hợp giữa hút chân không và foóc xép.

- Mifepristone sau đó dùng liều prostaglandin nhắc lại như dùng misoprostone hoặc gemeprost.

- Prostaglandin đơn thuần (misoprostol hoặc gemeprost) nhắc lại nhiều lần.

Mời xem tiếp Điều trị tai biến và biến chứng phá thai trên SK&ĐS số 51 ra ngày 29/3/2011

  ThS. Vũ Văn Du (BV Phụ sản TW)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét